Thiết kế và phát triển Grumman F-11 Tiger

Nguồn gốc của chiếc F11F (F-11) Tiger được bắt đầu từ một dự án đầu tư riêng của Grumman vào năm 1952 nhằm hiện đại hóa chiếc F9F-6/7 Cougar bằng cách bổ sung lý thuyết quy luật khu vực và các tiến bộ khác. Dự án này của nội bộ công ty Grumman được biết đến dưới tên G-98, và đến cuối cùng đã hoàn toàn khác biệt so với chiếc Cougar.

Tiềm năng của kiểu thiết kế về tính năng bay siêu thanh và giảm lực cản ở tốc độ cận âm đã dấy lên được sự quan tâm của Hải quân. Đến năm 1953, việc tái thiết kế đã đưa đến một kiểu máy bay hoàn toàn mới chỉ mang dáng dấp họ hàng với chiếc Cougar. Kiểu cánh mới có cánh phụ mép trước (slat) suốt bề rộng cánh và cánh nắp ở mép sau cánh, trong khi việc điều khiển lộn vòng lại dựa vào các tấm lái ngang thay vì các bánh lái lượn truyền thống. Để xếp được trên các tàu sân bay, cánh của chiếc F-11 Tiger được gấp bằng tay xuôi xuống. Được chuẩn bị cho tính năng bay ở tốc độ siêu thanh, cánh đuôi được thiết kế di động toàn bộ. Động cơ trang bị là kiểu turbo phản lực Wright J65, một phiên bản chế tạo theo giấy phép nhượng quyền của kiểu động cơ Armstrong Siddeley Sapphire.

Cơ quan Hàng không Hải quân đã chịu ấn tượng đáng kể về kiểu thiết kế nên đã đặt hàng hai chiếc nguyên mẫu, đặt tên là XF9F-8 cho dù chiếc máy bay rõ ràng là một thiết kế mới. Làm cho vấn đề càng thêm lẫn lộn, chiếc nguyên mẫu lại được đặt lại tên là XF9F-9 trong khi tên gọi XF9F-8 lại dành cho một kiểu thiết kế gần gũi hơn với kiểu Cougar chính thống. Do phiên bản có đốt sau của loại động cơ J65 chưa sẵn sàng, chiếc nguyên mẫu bay chuyến bay đầu tiên vào ngày 30 tháng 7 năm 1954 với một động cơ không có đốt sau. Cho dù như thế, chiếc nguyên mẫu đã gần đạt được tốc độ Mach 1 ngay trong chuyến bay đầu tiên. Chiếc nguyên mẫu thứ hai được trang bị động cơ đốt sau, đã trở thành chiếc máy bay siêu thanh thứ hai của Hải quân (sau chiếc Douglas F4D Skyray). Vào tháng 4 năm 1955, chiếc máy bay được nhận tên gọi mới là F11F-1 (sau này trở thành F-11A sau khi áp dụng Hệ thống định danh máy bay Thống nhất vào năm 1962). Việc thử nghiệm hoạt động trên tàu sân bay được bắt đầu vào ngày 4 tháng 4 năm 1956 khi một chiếc F11F-1 Tiger hạ cánh và được phóng lên từ tàu sân bay USS Forrestal.

Cùng với chiếc máy bay tiêm kích F-11A (F11F-1), Grumman cũng đề nghị một phiên bản tiên tiến hơn trên cùng khung máy bay được biết đến dưới tên gọi F11F-1F Super Tiger. Đây là kết quả của công trình nghiên cứu vào năm 1955 nhằm trang bị kiểu động cơ mới General Electric J79 lên khung máy bay F-11. Hải quân đã quan tâm đến kế hoạch này nên đã chấp thuận cải biến hai chiếc F11F-1 phiên bản sản xuất có cửa hút gió mở rộng hơn và trang bị kiểu động cơ turbo phản lực YJ79-GE-3, và kiểu máy bay này được đặt tên là F11F-2. Chiếc máy bay này bay chuyến bay đầu tiên vào ngày 25 tháng 5 năm 1956, đạt được tốc độ Mach 1,44 ở một trong những chuyến bay của nó. Sau khi bổ sung thêmnhững miếng đệm 60° ở gốc cánh, thân được kéo dài thêm 35 cm (13,5 in), một phiên bản động cơ J79 được nâng cấp, chiếc F11F-2 đạt được tốc độ rất ấn tượng Mach 2,04 và một trần bay 24.466 m (80.250 ft). Không may là Hải quân đã không yêu cầu đưa chiếc này vào sản xuất. Chiếc F11F-2 sau đó được đổi lại tên là F11F-1F, nhằm nêu lên đặc tính phiên bản F11F-1 sản xuất với kiểu động cơ đặc biệt. Thất bại trong việc đạt được hợp đồng sản xuất cùng hải quân Mỹ, Grumman tiếp thị kiểu Super Tiger cho các khách hàng nước ngoài. Không quân Đức, Không lực Phòng vệ Nhật BảnKhông quân Hoàng gia Canada đã tỏ ý định quan tâm đến nó, nhưng sau đó đã đặt mua kiểu Lockheed F-104 Starfighter thay thế.